
Căn cứ Điều 3 Thông tư 111/2013/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Luật Thuế TNCN, Luật Thuế TNCN sửa đổi và Nghị định 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định khoản thu nhập từ học bổng được miễn thuế TNCN, gồm:
“Điều 3. Các khoản thu nhập được miễn thuế
…
m.1) Học bổng nhận được từ ngân sách Nhà nước bao gồm: học bổng của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo, các trường công lập hoặc các loại học bổng khác có nguồn từ ngân sách Nhà nước.
m.2) Học bổng nhận được từ tổ chức trong nước và ngoài nước (bao gồm cả khoản tiền sinh hoạt phí) theo chương trình hỗ trợ khuyến học của tổ chức đó.
Tổ chức trả học bổng cho cá nhân nêu tại điểm này phải lưu giữ các quyết định cấp học bổng và các chứng từ trả học bổng. Trường hợp cá nhân nhận học bổng trực tiếp từ các tổ chức nước ngoài thì cá nhân nhận thu nhập phải lưu giữ tài liệu, chứng từ chứng minh thu nhập nhận được là học bổng do các tổ chức ngoài nước cấp.”
Tóm lại: Học bổng là một khoản tiền trao tặng cho những học sinh, sinh viên,… có thành tích suất sắc trong học tập, nghiên cứu hoặc có khó khăn về tài chính nhằm khích lệ, phát huy khả năng tri thức của lớp trẻ. Do đó, pháp luật miễn thuế TNCN đối với học bổng với mục đích khuyến học.
Thứ nhất, học bổng nhận được từ ngân sách nhà nước. Thuế được thu vào ngân sách nhà nước, phục vụ hoạt động chi của nhà nước, do đó việc đánh thuế vào những khoản thu từ ngân sách không có tác dụng.
Thứ hai, học bổng từ tổ chức trong nước và nước ngoài theo chương trình khuyến học. Đây là những nguồn học bổng tư, phục vụ mục đích chính đáng do đó, việc miễn thuế đối với những khoản thu nhập từ học bổng như trên là hợp lý.
Như vậy, thu nhập từ học bổng thuộc hai trường hợp trên sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân.